Các triệu chứng của bệnh polyp đại tràng là gì?

Polyp đại tràng là những tổn thương mọc ra từ niêm mạc đại tràng và lồi lên trên bề mặt niêm mạc. Nó thường là kết quả của sự phát triển quá mức của các tế bào biểu mô và mở rộng từ bề mặt niêm mạc đến khoang. Bất kể là dạng đế rộng, cuống dài hay cuống dài, đều chỉ biểu hiện bằng mắt thường mà không biểu thị bản chất bệnh lý, vì vậy trước khi chưa biết bản chất bệnh lý thì có các triệu chứng viêm nhiễm, u hạt truyền nhiễm, tăng sản mô, ung thư. Tổn thương lồi, thường được sử dụng. đa nang. Miêu tả. Polyp đại tràng có diễn tiến tự nhiên lâu hơn và có các triệu chứng không điển hình. Các polyp nằm ở các bộ phận khác nhau có thể gây ra các triệu chứng lâm sàng khác nhau. Polyp ở tuổi thiếu niên có thể tự rụng, tỷ lệ polyp ở người trưởng thành tăng dần theo tuổi. Một số trong số chúng có thể trở thành ung thư hoặc liên quan chặt chẽ đến ung thư và được công nhận là tổn thương tiền ung thư. Một số do di truyền hoặc kèm theo các bệnh toàn thân.

Polyp đại tràng dị dạng được tìm thấy ở 40% ~ 50% những người trên 60 tuổi ở Hoa Kỳ, và nó cũng phổ biến ở Tây Âu. Ở những khu vực có tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng thấp, hiếm có polyp tuyến ruột kết, gần như bằng không ở người da đen Nam Phi, lên đến 10% ở Nhật Bản và Colombia, và hiếm ở Nam Á. Các bữa ăn ít chất xơ, ít rau và nhiều chất béo có liên quan mật thiết đến sự xuất hiện của polyp và sự xuất hiện của ung thư ruột kết: do axit béo bão hòa tăng lên, sự hình thành phân bị giảm và các thành phần có hại như chất gây ung thư ở trong khoang ruột lâu hơn, dẫn đến polyp và Tỷ lệ mắc bệnh ung thư đại tràng ngày càng gia tăng.

Các triệu chứng của polyp đại tràng

Các triệu chứng chính của bệnh polyp đại tràng là có máu lẫn trong phân, phân bất thường, đau bụng và sa polyp.

Tan máu: có máu xen kẽ trong phân hoặc máu trên bề mặt phân, chủ yếu là màu đỏ tươi; tình trạng viêm và nhiễm trùng thứ phát có thể đi kèm với phân nhầy hoặc máu nhầy trong phân, có thể có mót rặn, táo bón hoặc phân tăng lên và những vùng gần hậu môn có thể có polyp nhô ra khỏi hậu môn. Những người gây lồng ruột.

Thay đổi thói quen đi tiêu: bao gồm thay đổi về thời gian và tần suất đi tiêu, cũng như táo bón hoặc tiêu chảy không rõ nguyên nhân. Đặc biệt, tình trạng táo bón và tiêu chảy luân phiên xảy ra lặp đi lặp lại, cần khơi dậy tinh thần cảnh giác.

Hình dạng phân không bình thường: phân bình thường nên có hình trụ, nhưng nếu polyp nằm trong lòng đại tràng và ấn vào phân sẽ có xu hướng mỏng hơn hoặc dẹt khi thải ra ngoài, đôi khi có kèm theo vết máu.

Trên lâm sàng, chỉ một số bệnh nhân bị polyp ruột có biểu hiện bất thường như có máu trong phân, phân nhầy hoặc táo bón, đau bụng, tiêu chảy, các triệu chứng này thường thiếu đặc hiệu. Trong số các loại u tuyến đại tràng có triệu chứng thì phân có máu hoặc máu nhầy là phổ biến nhất, thường thấy ở những polyp trực tràng tương đối lớn, đôi khi có lượng máu chảy ra nhiều, cũng có những bệnh nhân bị mất máu mãn tính do polyp và thiếu máu. Các u tuyến lớn hơn ở trực tràng cũng có thể gây ra tăng tần suất phân hoặc sa hậu môn, hoặc thậm chí sa ra ngoài hậu môn. Trong một số trường hợp hiếm, u tuyến đại tràng có thể gây lồng ruột và đau quặn bụng. Các triệu chứng của polyp ruột non thường không rõ ràng, có thể biểu hiện là đau bụng tái phát và chảy máu ruột.

1. Sự xuất hiện của polyp: Những polyp không phải khối u nhỏ, có cuống, đa số là nhân lành trong số các polyp, nhìn chung không dễ chuyển thành ác tính, nếu polyp có kích thước lớn, diện rộng và phát triển rộng sẽ trở thành ung thư. Khả thi.

2. Số lượng polyp: một polyp đơn lẻ có tỷ lệ ung thư thấp, trong khi đa polyp có tỷ lệ ung thư tăng lên.

Thứ ba là xem xét tính chất mô của polyp: các polyp viêm đơn giản ít có khả năng trở thành ác tính, còn các polyp tuyến, đặc biệt là u tuyến lông nhung rất dễ trở thành ung thư ruột kết.

4. Tốc độ phát triển của polyp: Nhiều khối polyp lành tính phát triển rất chậm, nếu chúng phát triển nhanh trong thời gian ngắn và đường kính trên 2 cm thì hãy coi chừng bị ung thư. Ví dụ như polyp tuyến đại tràng là do tế bào niêm mạc đại tràng tăng sinh quá mức, tỷ lệ ung thư có thể lên tới 42% -77%.

Thứ năm, đó là xem xét tiền sử di truyền gia đình: có một loại “đa polyp đại trực tràng mang tính gia đình”, nghĩa là một số người trong cùng một gia đình có thể bị polyp đại tràng. Đây là một bệnh di truyền trội trên NST thường và di Gây ra bởi một khiếm khuyết di truyền trong nhiễm sắc thể số 5. Ở những người có khuynh hướng di truyền trong gia đình này, nếu bố hoặc mẹ mắc bệnh polyposis thì 50% số polyp ở con cái sẽ có nguy cơ chuyển thành ác tính; nếu cả bố và mẹ đều mắc bệnh polyposis thì nguy cơ ung thư polyp ở con cái có thể là Tăng lên 75%.

Những ai thuộc nhóm nguy cơ cao mắc bệnh polyp đại tràng?

1. Những người bị ung thư ruột kết, polyp đại tràng trong gia đình;

2. Sống lâu dài ở các khu vực dễ bị polyp, những vùng có môi trường và nguồn nước ô nhiễm

3. Chế độ ăn tây hóa dài ngày (nhiều mỡ, nhiều đạm động vật, ít chất xơ,…), đồ chiên rán;

4. Tuổi lớn hơn 50;

5. Mắc các bệnh liên quan, chẳng hạn như xơ gan, ung thư vú, v.v.

Cách điều trị polyp đại tràng

1. Có thể cắt bỏ và kiểm tra một polyp đơn lẻ cùng một lúc.

2. Nhiều polyp hoặc nhiều polyp lớn có dấu hiệu ác tính có thể sinh thiết giải phẫu bệnh qua soi hậu môn trực tràng để loại trừ ác tính.

3. Polyp sa ở cuống thấp hoặc dài có thể được cắt bỏ bằng mỏ vịt hậu môn, gương thẳng thứ hai, thắt dây hoặc trực tiếp qua hậu môn.

4. Polyp trên diện rộng hoặc nhiều polyp có thể được cắt bỏ một phần qua ổ bụng, tầng sinh môn và thành ruột túi thừa.

5. Cắt polyp bằng điện cao tần có thể thực hiện được với nội soi đại tràng sợi.

6. Nếu polyp là ung thư, cần tiến hành cắt bỏ triệt để tùy theo khối u.

 

Chia sẻ bài viết lên:
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Tham gia bình luận.x